
Giuse Nguyễn Đình Nghi
Đọc lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu theo thánh Gioan, ta thấy : khi thuộc hạ các thượng tế đến bắt Đức chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, ngài nói với họ : "Tôi đã bảo với các anh là chính tôi đây. Vậy nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi".
Thế là ứng nghiệm lời Ngài đã nói : "Những người cha đã trao phó cho con, con không để thất lạc một ai"(Ga. 18, 8-9). Đó là điều cha Giuse Nguyễn Đình Nghi hằng suy niệm trong thời bách hại. Lúc nào trong người cha cũng mang sẵn một vài nén bạc, để nếu bị bắt ở nhà người khác thì có tiền chuộc chủ nhà. Cha sẵn sàng hy sinh tử đạo nhưng không muốn liên lụy đến ai.
Giuse Nguyễn Đình Nghi sinh năm 1793 tại xứ Kẻ Vồi, huyện Thượng Phúc, nay thuộc Hà Nội, trong một gia đình trung lưu. Ngay từ nhỏ, cậu Nghi đã dâng mình cho Chúa, sống với cha Liêm ở xứ Kẻ Vồi. Học xong trường thày giảng, thày lại trở về giúp xứ nhà. Các cha thấy thày thông minh hiền hậu, nên cho theo thần học, và năm 30 tuổi, thày Nghi thụ phong linh mục. Đức cha Havard Du bổ nhiệm cha làm phó xứ Sơn Miêng một năm, phó xứ Kẻ Vạc bốn năm, rồi phụ giúp cha Khoan ở xứ Phúc Nhạc. Do khả năng quản trị, ngài được về làm cha sở xứ Đa Phạn khoảng mười năm. Cuối cùng đang làm cha xứ Kẻ Báng thì bị bắt.
Cha Nghi có nếp sống rất đạo hạnh, chuyên chăm việc giảng dạy và siêng năng ngồi tòa giải tội. Cha có biệt tài giúp tội nhân thống hối, hoán cải. Cha ăn chay nhiều ngày cách nghiêm ngặt, cha thày giảng lo cho sức khỏe, phải can gián cha nhiều lần. Tính tình cha hòa nhã vui vẻ, nhanh nhẹn hoạt bát, nhất là thông thạo luật đạo đời, nên trong giao tế, cha được mọi người kính trọng mến yêu. Lương dân chung quanh thường đồn đãi với nhau là: Nếu ông này không đi tu chắc làm quan lớn lắm…
Trong những năm vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm mong ước tử đạo, nhưng ngài nói: "Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh chị em tín hữu". Khi đi làm mục vụ, cha cẩn thận mang theo ít tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt.
...
Đức Lêo XIII suy tôn ba linh mục Giuse Nguyễn Đình Nghi, Phaolô Nguyễn Ngân và Martinô Tạ Đức Thịnh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển thánh.